Top Google Việt Nam : Làm Biển Quảng Cáo, Mua Bán Ô Tô Cũ, Phong Thủy, Gitizen.info, Blog Thủ Thuật SEO

Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

Đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn theo đề nghị phát triển năng lực

Chủ trương chuyển đổi cách tiếp cận chương trình giáo dục từ hướng cung cấp nội dung sang cách tiếp cận hình thành và phát triển năng lực là một trong những đổi mới cơ bản. Đổi mới căn bản ấy cần phải tiến hành một cách toàn diện ở tất tật các yếu tố của quá trình giáo dục: từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến rà, đánh giá… Để có cơ sở đổi mới rà, đánh giá môn Ngữ văn, chẳng thể không xác định một số nội dung quan trọng: Năng lực và năng lực Ngữ văn là gì? Đánh giá năng lực Ngữ văn như thế nào? Từ đó đề xuất hướng ra đề theo đề nghị đánh giá năng lực với các thí dụ cụ thể. Bài viết này tụ họp bàn về các vấn đề đó. I. Năng lực và đánh giá năng lực Ngữ văn 1. Năng lực Năng lực là một khái niệm cốt lõi chi phối việc đổi mới cơ bản chương trình giáo dục mới. Có rất nhiều loại năng lực. Nội hàm khái niệm năng lực cũng tùy vào cách tiếp cận và lĩnh vực áp dụng mà hiểu khác nhau. Trong lĩnh vực Chương trình giáo dục mấy năm gần đây, loại năng lực được nhiều nước quan hoài là những năng lực chung/ năng lực chủ chốt. Đây là loại năng lực mà bất kỳ một học trò nào cũng cần được hình thành và phát triển để có thể đối mặt với những thay đổi và thách thức khi bước vào cuộc sống thực. Bên cạnh đó là các năng lực chuyên biệt do các lĩnh vực/ môn học cụ thể mang lại. Tuy cách phát biểu về năng lực có thể khác nhau nhưng đều thống nhất trong cách hiểu về thực chất của khái niệm này. Có thể nêu lên mấy điểm thống nhất sau: a) Năng lực là sự áp dụng tổng hợp nhiều nhân tố: tri thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, ý chí, kinh nghiệm và nhiều nguồn lực tinh thần khác để giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề đặt ra trong cuộc sống (học tập và lao động). B) Đánh giá năng lực là đánh giá khả năng thực hiện, vận dụng; ưng chuẩn làm, qua hành động để đo đếm, xác định chứ không chỉ yêu cầu biết và hiểu. Đương nhiên thực hiện/vận dụng ở đây phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và kĩ năng, chứ không phải thực hiện một cách “máy móc”,“mù quáng”. Đó là cách tiếp cận mới nhưng không phải xa lạ “từ trên trời rơi xuống” mà nó vốn đã có trong chương trình cũ nhưng chưa được hiểu đúng. Bởi các thành tố căn bản cấu thành năng lực vẫn là kiến thức và kĩ năng; vì vậy muốn hình thành năng lực vẫn phải phê duyệt tri thức và kĩ năng. Tuy nhiên nếu chỉ mình tri thức và kĩ năng, nhất là khi chúng tách rời nhau, thì chưa thể có năng lực thực thụ. 2. Năng lực ngữ văn và đánh giá năng lực ngữ văn Có nhiều cách hiểu về năng lực Ngữ văn. Căn cứ vào đích, thuộc tính và nội dung chương trình môn học này từ trước đế nay; từ cách hiểu chung về năng lực, có thể nói năng lực Ngữ văn là trình độ ứng dụng các tri thức, kĩ năng cơ bản về văn chương và tiếng Việt để thực hiện giao du trong cuộc sống. Năng lực Ngữ văn gồm 2 năng lực bộ phận là: Năng lực thu nhận văn bản và Năng lực tạo dựng văn bản. 2.1) Năng lực tiếp thu văn bản là khả năng lĩnh hội, nắm bắt được các thông báo chủ yếu; từ đó hiểu đúng, hiểu thấu, thấy cái hay, cái đẹp của văn bản, nhất là văn bản văn chương. Muốn có năng lực tiếp nhận phải biết cách tiếp nhận. Nghĩa là dựa vào những nguyên tố, cơ sở nào (từ, ngữ, câu, đoạn, hình ảnh, biểu trưng, số liệu, sự kiện, tiêu đề, dấu câu…) để có thể có được các thông báo và cách hiểu ấy. Đánh giá năng lực kết nạp thường dựa vào kết quả của 2 kĩ năng chính là nghe và đọc. Nghe và phản hồi các thông báo nghe được một cách chóng vánh, xác thực, không rơi vào tình trạng “ông nói gà, bà nói vịt”. Việc các nước phát triển trong nhiều kỳ thi phải tổ chức thi nói chính là để kiếm tra năng lực nghe/nói, năng lực bộc lộ miệng. Do thuộc tính và đề nghị tổ chức phức tạp hơn nên hình thức thi nói ít được áp dụng. Việc đánh giá năng lực thu nhận chính yếu dồn vào kĩ năng đọc hiểu văn bản. Văn bản ở đây cần hiểu theo nghĩa rộng. Đó không chỉ là các tác phẩm thơ văn nghệ thuật mà còn là các loại văn bản không phải là văn chương, như văn bản viết về lịch sử, địa lý, toán học, Sinh học…khoa học thường thức hoặc một thông tin nơi công cộng, một bản thuyết minh công dụng và cấu tạo của máy móc, một đơn xin việc… Nhiều nước gọi đó là văn bản thông báo – một loại văn bản rất gần gụi với mọi người và thẳng gặp trong cuộc sống. Về mặt cấu trúc, bố cục cũng không chỉ thẩm tra mình loại văn bản viết liền mạch trên trang giấy mà còn rất nhiều loại văn bản kết hợp giữa kênh chữ và kênh hình (biểu đồ, đồ thị, minh họa, công thức, tranh ảnh, hình khối, bản đồ…), người ta gọi là văn bản không liền mạch (Non-Continuous Texts). Bít tất đều là những văn bản cần đọc hiểu và phải dạy cho học trò cách đọc hiểu mỗi loại văn bản. Tóm lại, bên cạnh việc đề nghị học sinh đọc hiểu một đoạn văn, bài thơ; nhà trường cần dạy và đề nghị các em biết đọc hiểu các loại văn bản thông tin, trong đó có rất nhiều văn bản kết hợp kênh chữ và kênh hình, học sinh phải biết đọc hình phối hợp với đọc chữ để nắm được thông báo và hiểu đúng ý nghĩa của văn bản. 2.2) Năng lực kiến lập văn bản là khả năng biết viết, biết tổ chức, xây dựng một văn bản hoàn chỉnh đúng quy cách và có ý nghĩa. Muốn có năng lực tạo dựng phải biết cách kiến lập. Tức thị nắm được cách viết một loại văn bản nào đó. Đánh giá năng lực tạo lập thường dựa vào kết quả của 2 kĩ năng chính là nói và viết. Kĩ năng nói gắn liền với nghe như đã nêu ở trên. Ngoài việc phản hồi nhanh và chuẩn xác lại các thông tin nghe được; nói phải rõ ràng, rành mạch, trôi chảy; từ nói đúng, nói hay đến nói hùng biện… Cũng như kĩ năng đọc ở năng lực hấp thụ; việc soát đánh giá năng lực kiến lập cốt tử dồn vào cho kĩ năng viết văn bản. Văn bản yêu cầu học trò tạo lập vẫn là các loại văn bản đã nêu ở phần trên, nhưng có khác ở chừng độ, nhất là đối với văn bản văn chương nghệ thuật. Cụ thể là nhà trường chú trọng dạy cho HS cách thu nhận văn bản thơ văn nghệ thuật nhưng khó yêu cầu các em kiến lập ra được loại văn bản này. Bởi đây là loại văn bản phụ thuộc vào khiếu thiên phú, thiên vị không phải muốn là có, cố mà thành. Ngoại trừ một số rất ít học trò có khiếu văn học thực sự, còn lại đại phần nhiều chỉ nên đề nghị các em làm quen và nắm được đặc điểm của các thể loại tác phẩm văn học để làm cơ sở cho việc hấp thụ văn học tốt hơn, hiệu quả hơn. Nếu có đề nghị tạo lập cũng chỉ ở một chừng độ vừa phải như biết kể lại, tả lại một sự việc, con người, quang cảnh; biết phát biểu những nghĩ suy, cảm tưởng của bản thân một cách trung thực, xúc động… Việc đề thi không yêu cầu nép phải viết một truyện ngắn hay bài thơ, với việc có một vài học sinh nào đó làm bài dưới dạng truyện ngắn, bài thơ,… là hai chuyện khác nhau, không mẫu thuẫn gì nhau. Cũng như thường phải có một số ít học trò trở nên nhà văn, thi sĩ mà đề nghị nhà trường phải dạy quờ mọi học sinh phải biết viết truyện ngắn, tiểu thuyết, làm thơ hay viết tùy bút... Trong khi đó một số văn bản thường ngày, gần gụi và luôn phải dùng trong cuộc sống thì lại bị coi nhẹ. Hàng loạt học sinh ra đời vẫn không biết viết một bản tường trình, một đơn xin việc, một biên bản cuộc họp cho đúng nội dung và quy cách. 2.3) Để đánh giá năng lực ngữ văn (cả kết nạp và tạo lập) cần phải cụ thể hóa các kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết) thành nhiều mức độ khác nhau. Theo từng cấp học, thích hợp với tâm lý-lứa tuổi mà yêu cầu từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp…Cũng từ đó mà chọn lọc một phương thức đánh giá cho thích hợp. Chả hạn với các kĩ năng nghe và nói, tía cốt thực hành đánh giá hàng ngày, thông qua các buổi học trên lớp, các hoạt động tập thể, sinh hoạt lớp, đoàn, đội…Các kĩ năng còn lại (đọc, viết) ngoài việc rà soát hàng ngày (đánh giá quá trình) thường được chú trọng ở các kỳ kiểm tra, thi cuối cấp, cuối lớp (đánh giá chấm dứt). Đánh giá theo đề nghị phát triển năng lực khác đánh giá theo hướng cung cấp nội dung. Theo hướng nội dung, đích đánh giá giao hội vào xem người học biết những gì (nhiều ít); nội dung đánh giá cốt tử là đề nghị nhắc lại những nội dung đã học, những gì thầy, cô đã dạy, những bài có trong chương trình và sách giáo khoa; Cùng đó, đề nghị cốt là chứng minh những gì đã có sẵn, truyền tụng và phê phán một chiều, rà trí tưởng là chính; đề thi và đáp án khép kín, bắt phải tuân thủ theo ý của người ra đề; còn biểu đạt, hành văn phụ thuộc hoàn toàn vào cảm tính, vào cái “gu”của người chấm… Kết quả là học trò tụ tập học thuộc lòng, chép văn mẫu. Mục tiêu của đánh giá theo đề nghị phát triển năng lực cần xác định được khả năng ứng dụng tổng hợp những gì đã học của học trò vào việc giải quyết một bài toán mới, đáp ứng các yêu cầu mới trong một tình huống na ná. Nội dung đánh giá không phải chỉ là những gì đã học mà còn là yêu cầu tổng hợp, liên hệ nhiều nội dung đã học; không chỉ giữa các phân môn trong môn học mà còn cả những hiểu biết từ các môn học khác. Tăng cường đề nghị HS tìm mối hệ trọng giữa các kiến thức, kĩ năng của bài học với các hiện tượng, sự vật, sự việc, con người…thường xuất hiện trong đời sống sinh hoạt cũng như công việc hàng ngày. Phương thức đánh giá không chú trọng yêu cầu học thuộc, nhớ máy móc, nói đúng và đầy đủ những điều thầy, cô đã dạy… mà quý trọng quan điểm và cách giải quyết vấn đề của mỗi cá nhân người học; cổ vũ những nghĩ suy sáng tạo, mới mẻ, giàu ý nghĩa; trọng sự phản biện trái chiều, khuyến khích những lập luận giàu sức thuyết phục… Muốn thế đề thi và đáp án cần theo hướng mở; với những đề nghị và chừng độ thích hợp; tránh cả hai khuynh hướng cực đoan: “đóng” một cách cứng nhắc, máy móc, làm thui chột sự sáng tạo và “mở” một cách tùy tiện “ không biên giới”, phi thẩm mỹ, phản giáo dục… Theo ý thức vừa nêu, hàng loạt câu hỏi tưởng đơn giản mà rất khó cần phải hợp nhất. Chẳng hạn: Thế nào đề mở? Các hình thức mở là gì ? mức độ mở đến đâu? Đáp án mở như thế nào ? Lấy gì làm tiêu chí chung để so sánh các bài làm của học sinh? Thế nè ý mới, ý sáng tạo?... Khó có thể nêu lên những tiêu chí và yêu cầu cụ thể nhằm giải đáp cho các câu hỏi đó, nhất là trong một bài báo. Chỉ có thể đàm luận, coi xét trên cơ sở các đề thi và đáp án cụ thể. Do đó đòi hỏi các tổ ra đề, các hội đồng chấm thi cần thảo luận kỹ lưỡng trước khi quyết định sự lựa chọn đề và đáp án chính thức. II. Đề xuất hướng ra đề thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn năm 2014 1. Nguyên tắc a) rà soát toàn diện hơn, bước đầu áp dụng cách đánh giá theo năng lực nhằm xác định đúng năng lực viết và năng lực đọc hiểu văn bản của học trò. B) đề nghị áp dụng tổng hợp tri thức và kĩ năng của nhiều lĩnh vực/ môn học để giải quyết một vấn đề chung, hệ trọng nhiều đến cuộc sống hàng ngày. C) thích hợp với thực tại dạy học, không gây sốc cho học sinh và nghiêm phụ d) bảo đảm tiệm cận dần đến các yêu cầu khi thực hành chương trình và sách giáo khoa mới (sau 2015); tổ chức một kỳ thi nhà nước: làm một bài thi tổng hợp để vừa xét tốt nghiệp THPT, vừa xét tuyển sinh đại học. 2. Đề nghị (Tổng điểm được tính theo thang 20) gồm: 2.1) Năng lực đọc hiểu (6/20) a) rà soát tri thức về tiếng Việt: phát hiện những sai sót về chính tả, ngữ pháp, chấm câu, dùng từ, logic…. Chẳng hạn cho một đoạn văn có nhiều sơ sót và yêu cầu HS phát hiện những sai sót trong đoạn văn đó. (2 điểm) b) đề nghị tóm lược ý chính của một đoạn văn bản cho trước (VB có thể là văn học, sử , địa, khoa học tự nhiên…) (2 điểm) c) Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật đặc sắc và tác dụng của biện pháp đó trong một đoạn thơ/ văn cho sẵn (2 điểm) Về lâu dài có thể tăng số lượng điểm về đọc hiểu và kiểm tra bằng dạng Trắc nghiệm như PISA hoặc Kỳ thi tốt nghiệp THPT bang California ( Hoa Kỳ). 2.2) Năng lực viết (14/20) a) Viết nghị luận xã hội (7/20 điểm): yêu cầu tích hợp các kiến thức lịch sử, địa lý, đạo đức, văn hóa…) ra theo dạng đề mở và đáp án mở. B) Viết Nghị luận văn chương (7/20 điểm): yêu cầu phân hóa cao hướng tới tuyển sinh đại học. Đề đề nghị áp dụng sáng tạo những hiểu biết về tri thức và kĩ năng văn học để thực hành, phân tách, đánh giá, bình luận, bác một vấn đề văn học, một văn bản, trích đoạn chưa được học trong SGK hiện hành. Về lâu dài có thể tích hợp 2 câu này thành một bài viết tổng hợp như bài thi viết của bang California (Hoa Kỳ) 2.3) Đánh giá kết quả: - Điểm xét tốt nghiệp: những HS đạt từ 10/ 20 điểm trở lên. - Các trường ĐH, nhất là các trường theo hướng XH-NV cứ vào tổng điểm 3 câu và điểm của câu 3 để xét tuyển sinh. 3. Đề tham khảo Đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn (120 phút, không kể thời gian phát đề) 1) Đọc và trả lời các câu hỏi sau (6/20) a) Đây là một đoạn văn nháp, trong đó còn mắc phải một số lỗi về ngữ pháp, chính tả, dùng từ, logic… Anh, chị hãy chỉ ra những sai sót đó. (2 điểm) Đoạn văn nháp: “…cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên là một sinh thể có vong hồn với những tính cách đối địch: vừa cường bạo, vừa dữ rằn. Đây là lối nhân cách hóa những đặc điểm vốn có của giòng sông thiên nhiên mà chực quan có thể nhìn thấy.” B) Đoạn văn sau nói về vấn đề gì? Hãy đặt tên cho đoạn trích (2 điểm) “Ở người lớn tuổi ít vận động cơ bắp, nếu chế độ ăn giàu chất Colesteron (thịt, trứng, sữa…) sẽ có nhiều nguy cơ bị bệnh xơ vữa động mạch. Ở bệnh này, colesteron ngấm vào thành mạch kèm theo các ion canxi làm cho mạch bị hẹp lại, không còn nhẵn như trước, xơ cứng và vữa ra. Động mạch xơ vữa làm cho sự vận chuyển máu trong mạch khó khăn, tiểu cầu dễ bị vỡ và hình thành cục máu đông gây tắc mạch. Động mạch xơ vữa còn dễ bị vỡ gây các tai biến trầm trọng như xuất huyết bao tử, xuất huyết não, thậm chí gây chết người”. (Sinh vật học - lớp 8. NXB Giáo dục 2007) c) Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật đặc sắc và tác dụng của chúng trong đoạn thơ sau (2 điểm): “ Chúng đem bom ngàn cân Dội lên trang giấy trắng Mỏng như một ánh trăng ngần Hiền như lá mọc mùa xuân ” (Trang giấy học sinh - Chính Hữu) 2. Cho tình huống sau: giả thử trong những tháng ngày Năm lịch sử, tại mảnh đất Điện Biên hôm nay, anh, chị được gặp một người anh hùng trong chiến dịch Điện Biên năm xưa… Anh, chị và người ấy sẽ nói với nhau chuyện gì ? Đi thăm những nơi nào? Hãy ghi lại điều đó và phát biểu những suy nghĩ, xúc cảm của mình sau cuộc gặp gỡ ấy. (7/20 điểm) 3. Viết về một nhân vật trong tác phẩm văn chương đã để lại cho anh, chị nhiều ấn tượng sâu đậm. (7/20 điểm) Hoặc: Viết một bài văn trả lời câu hỏi: Cuộc sống sẽ như thế nào nếu thiếu thơ ca? (7/20 điểm) Hoặc: tiếng nói thơ Việt Nam rất giàu nhạc tính. Anh, chị hãy viết bài văn làm sáng tỏ nhận định đó qua một đoạn thơ tự chọn. (7/20 điểm). Thực hiện nhiệm vụ đổi mới giáo dục phổ thông theo ý thức Nghị quyết số 29/NQ-TW của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành trung ương Đảng về đổi mới cơ bản, toàn diện GD - ĐT, ngày 6/3/2014, Bộ GD&ĐT đã ban hành kế hoạch số 103/KH-BGDĐT về việc tổ chức hội thảo “Đổi mới thẩm tra, đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn trong trường phổ quát”. Hội thảo nhằm nghiên cứu cơ sở lý luận và xây dựng kế hoạch khai triển việc đổi mới phương thức rà soát đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn ở trường phổ biến theo định hướng phát triển năng lực người học với cách thức xây dựng đề thi/rà và đáp án theo hướng mở; tích hợp kiến thức liên môn; giải quyết vấn đề thực tại. Hội thảo sẽ được tổ chức tại Hà Nội ngày 10/4/2014.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.